Chế phẩm sinh học được khuyến nghị sử dụng trong chăn nuôi lợn để phòng và hạn chế lây lan dịch tả lợn châu Phi

Bệnh dịch tả lợn châu Phi là gì?

Bệnh dịch tả lợn Châu Phi là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do virus gây ra với nhiều biểu hiện: quá cấp, cấp tính, mãn tính và không điển hình. Đặc trưng chính của lợn khi nhiễm bệnh là thâm tím da phần lớn cơ thể, viêm xuất huyết tràn lan đường tiêu hóa, hạch lâm ba và thận. Bệnh có đặc điểm lây lan nhanh và xảy ra ở mọi loài lợn, mọi lứa tuổi, gây thiệt hại nghiêm trọng với tỷ lệ chết cao đến 100%. Virus gây bệnh có sức đề kháng cao với môi trường. Lợn khỏi bệnh có khả năng mang virus trong thời gian dài, có thể mang trùng suốt đời, do vậy khó có thể loại bỏ nếu để xảy ra bệnh dịch tả lợn Châu Phi.

Virus dịch tả lợn Châu Phi lây nhiễm qua đường hô hấp và tiêu hóa

Con đường lây truyền bệnh

Virus dịch tả lợn Châu Phi lây nhiễm qua đường hô hấp và tiêu hóa, thông qua sự tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với các vật thể nhiễm virus như: chuồng trại, phương tiện vận chuyển, dụng cụ, đồ dùng, quần áo nhiễm virus và thức ăn thừa chứa thịt lợn nhiễm bệnh. Hiện nay chưa có vắc xin phòng và thuốc điều trị được bệnh dịch tả châu Phi.

Thiệt hại do dịch tả lợn Châu phi gây ra và khuyến nghị của Bộ Nông nghiệp và PTNT

            Theo thống kê, tính đến tháng 07/2019 dịch tả heo Châu phi đã xảy ra tại 62/63 tỉnh, thành với hơn 3,3 triệu con lợn buộc phải tiêu hủy gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng bao gồm chi phí hỗ trợ tiêu hủy, chi phí mua hóa chất sát trùng, chi phí hỗ trợ tiêu hủy và diễn biến của dịch bệnh chưa có dấu hiệu dừng lại.

            Đứng trước thực trạng đó, nhiều hội thảo, hội nghị được Bộ Nông nghiệp và PTNT được tổ chức trong thời gian qua để ứng phó với dịch tả lợn Châu Phi cũng như đưa ra các biện phát, mô hình chăn nuôi đảm bảo an toàn sinh học. Sau khi khảo sát và đánh giá hiệu quả tại một số mô hình, ông Nguyễn Xuân Dương, quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết: Thực tế cho thấy chăn nuôi lợn an toàn không phải cứ nhà kính hiện đại, cơ sở hạ tầng cầu kỳ mới tránh được dịch bệnh, mà chỉ cần có giải pháp chăn nuôi an toàn sinh học như nhiều hộ gia đình đã và đang làm hiện nay là thành công. Theo ông Dương, kết quả thử nghiệm sử dụng các chế phẩm sinh học trộn vào thức ăn chăn nuôi cho thấy đàn lợn phát triển khoẻ mạnh và nếu kết hợp với biện pháp an toàn sinh học, người chăn nuôi có thể hạn chế được dịch tả lợn Châu Phi hiện nay. “Bản chất của các chế phẩm này là các vi sinh vật có lợi (probiotic), các enzyme tiêu hóa để cải thiện sức khỏe, tăng khả năng chuyển hóa thức ăn và sinh trưởng của vật nuôi, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi”, ông Dương khẳng định.

Các sản phẩm probiotic được bổ sung vào thức ăn giúp lợn có đường tiêu hóa khỏe mạnh

            Nói về vấn đề này, ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT cho hay: Hiện nay, Bộ đã tổng kết và thấy rằng việc sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi lợn đạt kết quả tương đối tốt. Về chính sách hỗ trợ, ông Tiến cho biết, trước mắt về mặt sản xuất, Bộ Nông nghiệp và PNNT sẽ khuyến cáo cho các địa phương nhân rộng, tiếp đó Bộ sẽ có nghiên cứu, đánh giá tác động, hiệu quả của chế phẩm để tìm ra quy trình sử dụng chuẩn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lợn. “Sắp tới Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ chỉ đạo Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp với hệ thống khuyến nông cả nước biên soạn giáo trình chăn nuôi, sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi lợn và tập huấn để giúp bà con sớm tiếp cận, thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học hiệu quả hơn”, ông Tiến nhấn mạnh.

            Phát biểu tại hội nghị triển khai các giải pháp tổng hợp phòng chống dịch tả heo Châu Phi diễn ra ngày 11/7/2019, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh giải pháp chăn nuôi an toàn sinh học vẫn là giải pháp phòng chống dịch bệnh hiệu quả nhất, không chỉ ứng phó với dịch tả heo Châu Phi mà áp dụng cho tất cả các loại dịch bệnh. “Về lâu dài, chúng ta phải sống chung với dịch bệnh nên phải có kế hoạch phát triển chứ không vì dịch bệnh mà không phát triển. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu vắc xin, chế phẩm sinh học để trở thành một trong những nhân tố đảm bảo an toàn sinh học sau này” – Bộ trưởng Cường phát biểu.

Các sản phẩm probiotic còn được sử dụng làm đệm lót chuồng, trại heo giúp giảm thiểu mùi hôi, phân hủy chất thải và dư thừa

            Các sản phẩm probiotic không những được bổ sung vào thức ăn giúp lợn có đường tiêu hóa khỏe mạnh, tăng sức đề kháng mà còn được sử dụng làm đệm lót chuồng, trại giúp giảm thiểu mùi hôi, phân hủy chất thải và dư thừa, giữ môi trường thông thoáng không cho virus, vi khuẩn có hại gây bệnh.

            Công ty CP Sinh phẩm BioOne hiện có đầy đủ các sản phẩm probiotic đơn dòng và đa dòng đã được chứng minh rộng rãi có thể mang lại hiệu quả rõ rệt cho sức khỏe động vật nuôi.

  • Các sản phẩm probiotic đơn dòng như: BioOne Probi (mang các chùng Bacillus sinh bào tử), BioOne Lactic (mang các chủng vi khuẩn lactic). Đây là dòng nguyên liệu vi sinh cao cấp, dùng làm nguyên liệu điều chế các chế phẩm men vi sinh, men tiêu, Probiotic, chất bổ sung thức ăn chăn nuôi, chế phẩm xử lý môi trường dùng trong Thú y, Thủy sản và Môi trường;
  • Các sản phẩm probiotic đa dòng cho hệ tiêu hóa động vật như: BioOne StrongGut (được phát triển chuyên biệt dùng riêng cho từng nhóm động vật thủy sản, gia súc gia cầm, gia súc ăn cỏ). Công dụng chính bao gồm: (1) Bổ sung các vi sinh vật sống và enzyme có lợi cho hệ tiêu hóa của động vật thủy sản (tôm, cám ốc) và gia súc gia cầm (heo, bò, gà, vịt, dê…); giúp vật nuôi tăng cường tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng; phát triển tốt và khở mạnh. (2) Phòng và hỗ trợ điều trị các bệnh về đường ruột như bệnh tiêu chảy, phân trắng ở vật nuôi; phòng ngừa hội chứng chết sớm;
  • Các sản phẩm probiotic đa dòng cho làm sạch chuồng trại vật nuôi như: BioOne SuperClear. Công dụng chính bao gồm: (1) Làm sạch chuồng trại vật nuôi. (2) Phân hủy các chất hữu cơ từ thức ăn dư thừa, phân tôm, xác tảo, làm sạch nhầy nhớt trong tầng đáy ao. (3) Chuyên cắt tảo và làm sạch nhớt bạt trong ao nuôi, ổn định màu nước. (4) Làm sạch nước, giảm mùi hôi thối, giảm khí độc, làm đáy ao sạch, ít bùn đen. (5) Tăng lượng oxy hòa tan trong nước.

Men vi sinh BioOne cam kết mang đến sự hài lòng và an toàn sức khỏe cho vật nuôi.

Các chế phẩm sinh học giữ môi trường chuồng trại heo thông thoáng, ngăn ngừa virus, vi khuẩn có hại gây bệnh

Nên sử dụng Men vi sinh hay Chlorine trong xử lý nước ao nuôi trồng thủy sản?

Trong những năm gần đây, nuôi trồng thủy sản phát triển rất mạnh cả quy mô và sản lượng. Việc phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững gặp nhiều khó khăn khi việc thâm canh hóa ngày càng tăng dẫn đến ô nhiễm môi trường ao nuôi. Sự tích tụ các chất hữu cơ, khí độc ngày càng lớn tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh phát sinh và phát triển gây ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi, làm tôm cá chậm lớn, giảm tỷ lệ sống và năng suất nuôi. Vì vậy, cải thiện chất lượng nước ao nuôi đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản.

Với tập quán canh tác lâu năm, người nuôi vẫn sử dụng Chlorine để xử lý nước ao nuôi thủy sản mà chưa hiểu hết những hệ lụy gây nguy hại đến con người và môi trường như:

– Chlorine là chất oxy hóa mạnh, khi lượng Chlorine xử lý nước trong ao nuôi tồn dư quá nhiều làm ao nuôi có mùi khó chịu, gây độc cho đối tượng nuôi đặc biệt là ấu trùng tôm và cá.  Quá trình oxy hóa gây ra những kích thích, phá hủy và tổn thương tế bào mang cá, làm cá tăng quá trình tiết dịch nhầy, viêm màng gây phồng mang cá. Sự thay đổi cấu trúc mang cá sẽ làm giảm khả năng hô hấp và hiệu quả điều chỉnh áp suất thẩm thấu. Khi bị ngộ độc Chlorine, nhịp hô hấp của cá tăng mạnh, cá có thể chết do giảm oxy trong máu.

– Phổ diệt trùng của Chlorine rất rộng nên hầu hết các vi khuẩn có lợi lẫn có hại trong nước, đáy ao đều bị tiêu diệt dẫn đến đất đáy ao bị thoái hóa và màu nước khó lên.

– Chlorine chỉ được sử dụng khi xử lý nước cấp vào đầu vụ nuôi mà không thể xử lý nước vào giữa và cuối vụ nuôi vì khi nước ao giàu dinh dưỡng, chất hữu cơ sẽ xảy ra phản ứng phụ với Chlorine sinh chất độc hại cho thủy sản, nguy cơ hình thành mầm móng ung thư ảnh hưởng xấu sức khỏe người tiêu dùng, giảm giá trị gia tăng đối với thành phẩm xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Mỹ, EU…

Trước những hạn chế đó, Men vi sinh xử lý nước đa dòng cho thủy sản BioOne SuperClear chính là giải pháp tối ưu, phát huy những điểm mạnh và khắc phục những bất lợi khi sử dụng Chlorine. Sản phẩm tạo sự an toàn về môi trường ao nuôi, phòng bệnh cho tôm cá cũng như đảm bảo được nguồn thực phẩm sạch, an toàn và chất lượng, đồng thời là cách thức giúp nghề nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững.

Men vi sinh xử lý nước đa dòng cho thủy sản BioOne SuperClear có các thành phần sau:

  • Thành phần:
    • Bacillus subtilis;
    • Bacillus licheniformis;
    • Enzyme: Protease, Amylase, Cellulase.
  • Mật độ: 108 – 109 CFU/gam
  • Cách dùng:
    • Từ 100 – 200 gram/1000m3 nước, dùng định kỳ 5 – 7 ngày/lần
    • Ao nước bị ô nhiễm, dùng liều gấp đôi, 3 – 5 ngày/lần.
  • Công dụng: Nên sử dụng chế phẩm sinh học ngay trong quá trình cải tạo ao vì sau quá trình diệt tạp, sản phẩm giúp phục hồi sự hiện diện của các vi sinh vật có lợi trong nước và tái tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho ao (đặc biệt là những ao tôm cá giống). Với ưu thế có thể sử dụng trong quá trình nuôi, sự hoạt động của các vi sinh vật có lợi trong sản phẩm sẽ mang lại tác dụng cho ao nuôi thủy sản như:
  • Sản phẩm chứa các enzyme có khả năng thủy phân mạnh (Protease, Amylase, Cellulase), giúp phân giải các chất hữu cơ tồn dư từ nguồn thức ăn dư thừa, phân tôm, nguồn hữu cơ gây ô nhiễm, xác tảo (tinh bột, cellulose, protein…), làm giảm hiện tượng phú nhưỡng hóa do sự phát triển của các nhóm tảo;
  • Giảm các độc tố trong môi trường nước (do các chất khí: NH3, H2S… phát sinh), do đó sẽ làm giảm mùi hôi trong nước, giúp tôm cá phát triển tốt;
  • Ức chế sự hoạt động và phát triển của vi sinh vật có hại (do các loài vi sinh vật có lợi sẽ cạnh tranh thức ăn và tranh giành vị trí bám với vi sinh vật có hại), giúp gia tăng về thành phần, mật độ của nhóm vi sinh vật có lợi, kìm hãm, ức chế, lấn át sự phát triển của vi sinh vật có hại, do đó sẽ hạn chế được mầm bệnh phát triển gây bệnh cho tôm cá;
  • Giúp ổn định độ pH của nước, ổn định màu nước do vi sinh vật hấp thu chất dinh dưỡng hòa tan trong nước nên hạn chế tảo phát triển nhiều, giúp giảm chi phí thay nước. Đồng thời làm tăng oxy hòa tan trong nước, giúp tôm cá đủ oxy để thở, khỏe mạnh, ít bệnh, ăn nhiều, mau lớn;
  • Nâng cao hiệu quả kinh tế cho các hình thức nuôi trồng thủy sản ( tăng hiệu quả sử dụng thức ăn; tôm cá mau lớn giúp rút ngắn thời gian nuôi, tăng tỷ lệ sống và tăng năng suất do tôm cá nuôi ít bị hao hụt; Tôm cá nâng cao miễn dịch giúp giảm chi phí sử dụng thuốc và hóa chất trong điều trị bệnh; giảm chi phí thay nước…).

Sản phẩm Men vi sinh xử lý nước hiện đang được BioOne sản xuất thành các loại chính như sau:

  • Men vi sinh xử lý nước cho thủy sản 108 CFU/gram (chứa 1 trăm triệu lợi khuẩn/gram sản phẩm;
  • Men vi sinh xử lý nước cho thủy sản 109 CFU/gram (chứa 1 tỷ lợi khuẩn/gram sản phẩm);
  • Men vi sinh xử lý nước cải tiến 108 CFU/gram, 109 CFU/gram.

Men vi sinh BioOne cam kết mang đến sự hài lòng và an toàn sức khỏe cho khách hàng.

Nuôi tôm năng suất cao nhờ Men vi sinh

          

Ứng dụng probiotics cho gia cầm (gà, vịt,…)

Chế phẩm probiotics đã được sử dụng rộng rãi cho gia cầm từ những năm 1970, đặc biệt là ở gà con mới nở. Những nghiên cứu của Nurmi và Rantala lần đầu tiên đã chứng minh về tính loại trừ cạnh tranh, nó được mô tả là sự loại trừ các tác nhân gây bệnh khỏi ổ sinh thái bởi sự cạnh tranh của một chủng vi khuẩn probiotics. Các tác giả này đã chứng minh rằng dịch manh tràng thô (cecal) của chim trưởng thành đã được uống probiotics từ khi mới nở có khả năng kháng với Salmonella enterica serotype Enteritidis. Cho đến nay, một số nghiên cứu đã chứng minh rằng các tác động loại trừ cạnh tranh của probiotics có thể giúp bảo vệ vật chủ chống lại tác nhân gây bệnh như S. typhimurium, Campylobacter jejuni, Yersinia enterocoliticaEscherichia coli O157:H7.

Trong thực tế, các con gà con nở bằng lồng ấp có thể rất cần sự can thiệp bằng probiotics vì chúng không được cung cấp các vi sinh vật bảo vệ từ gà mẹ và môi trường sống. Điều đáng quan tâm là với các con gà con mới nở theo cách thông thường thì hệ vi sinh vật trong manh tràng cũng không ổn định cho đến khi 4 – 6 tuần tuổi, điều này cho thấy chế phẩm probiotics tốt nhất dùng cho gà con mới nở, tuy nhiên, chúng vẫn có thể tốt cho gà sau 6 tuần tuổi. Ở gà thịt, các chế phẩm probiotics đơn chủng (chỉ gồm một chủng duy nhất) đã được sử dụng để kiểm soát S. typhimuriumS. enteritidis. Hơn nữa, gần đây một ứng dụng phun xịt đã được sử dụng cho gà con với chế phẩm probiotics chứa Lactobacillus (FM-Probiotic).

Probiotics cũng đã được chứng minh là một tác nhân loại trừ cạnh tranh đối với Salmonella spp. ở gia cầm và có hiệu quả tốt trên gà thịt và gà mái đẻ trứng. Mặc dù đã có nhiều báo cáo của các công trình nghiên cứu về các chế phẩm probiotics, nhưng cho đến nay các nghiên cứu này vẫn chỉ giới hạn trong một số ít đối tượng động vật nuôi hoặc có các số liệu thống kê chưa đầy đủ và hợp lệ. Tuy nhiên, dường như đều có một quan điểm thống nhất rằng các chế phẩm probiotics hiệu quả ở gia cầm khi chúng được bảo quản trong các điều kiện tối ưu.

a) Loại trừ Salmonella, E. coli và C. perfringens

Sản phẩm BioOne StrongGut với nguyên liệu vi sinh nhập từ Mỹ là dòng chuyên dụng cho gia cầm được kiểm chứng hiệu quả tại nhiều địa phương trong toàn quốc

Tác dụng loại trừ cạnh tranh của các chủng probiotics chống lại vi khuẩn Salmonella spp. và vi khuẩn E. coli gây bệnh ở gia cầm đã được nghiên cứu rộng rãi. Cho đến nay, hình thức hiệu quả nhất của tính loại trừ cạnh tranh đã được chứng minh từ dịch nuôi cấy Nurmi trong đó bao gồm các vi khuẩn manh tràng chưa xác định. Đầu những năm 1990, hai probiotics thương mại BROILACT 1 và AVIGUARD 1, là các chế phẩm loại trừ cạnh tranh không xác định, đã được bán thương mại ở Anh. BROILACT 1 đã cho thấy khả năng loại trừ mạnh S. enteritidis Pt4 và sự giảm đáng kể Salmonella thu hồi từ các phần của manh tràng. AVIGUARD 1 cũng đã được chứng minh hiệu quả bảo vệ gà con 1 ngày tuổi khỏi mật độ cao của S. enteritidisS. typhimurium là hai týp huyết thanh của Salmonella gây nhiễm trùng ở người.

Bên cạnh các chế phẩm probiotics không xác định, các chế phẩm probiotics đơn chủng cũng đã được chứng minh về hiệu quả loại trừ một số vi khuẩn gây bệnh ở gia cầm. Năm 1997, Edens và cs đã công bố hiệu quả của chế phẩm chứa Lactobacillus reuteri trong việc làm giảm mật độ vi khuẩn SalmonellaE. coli của gà con và gà tây tơ. Một chế phẩm khác có chứa vi khuẩn Lactobacillus cũng đã được sử dụng để kiểm soát S. enteritidis trong gia cầm.

Mặc dù đã có nhiều báo cáo cho thấy hiệu quả của việc sử dụng chế phẩm probiotics trong điều trị dự phòng, nhưng rất nhiều ý kiến đặt ra câu hỏi “liệu việc sử dụng chế phẩm probiotics như một phương pháp dự phòng có loại trừ được hoàn toàn tác nhân gây bệnh?” trong khi các thuốc kháng sinh hiệu quả có sẵn. Cho đến nay, ngay cả trong các nghiên cứu in vivo sử dụng bacteriocin tiềm năng để chống lại tác nhân gây bệnh thì người ta vẫn tìm thấy tác nhân gây bệnh với mật độ khoảng 103 – 104 CFU/g phân. Như vậy, mặc dù các chế phẩm probiotics cho thấy nhiều triển vọng tiềm năng, nhưng chúng không loại bỏ hoàn toàn được các chủng gây bệnh.

b) Loại trừ Campylobacter

Loại trừ cạnh tranh là cơ chế chính của các chủng vi khuẩn probiotics với khả năng loại trừ các tác nhân gây bệnh khỏi ổ sinh thái trong nuôi gia cầm

Hiệu quả loại trừ cạnh tranh của vi khuẩn từ phần manh tràng ở gà với vi khuẩn Campylobacter jejuniSalmonella spp. đã được chứng minh, mặc dù các phần manh tràng cho hiệu quả bảo vệ chống lại sự nhiễm trùng C. jejuniSalmonella spp. là khác nhau. Các nghiên cứu hiện nay tập trung vào việc xác định phần manh tràng từ chim trưởng thành mà có hiệu quả loại trừ cạnh tranh với cả C. jejuniSalmonella spp. (multiple serotypes). Năm 2007, Zhang và cs đã xác định được 194 chủng trong số 636 chủng phân lập có hiệu quả ức chế C. jejuni tối đa, trong đó có 145 chủng phân lập từ manh tràng và 117 chủng là vi khuẩn kỵ khí tùy tiện. Trước đó, vào năm 1994 Schoeni và Wong đã tiến hành thử nghiệm một hỗn hợp vi khuẩn probiotics (Citrobacter diversus 22, Klebsiella pneumonia 23 và E. coli 25) để loại trừ C. jejuni ở chim non 1 ngày tuổi. Kết quả thử nghiệm cho thấy hiệu quả cao trong việc loại trừ C. jejuni. Kết hợp với một số nghiên cứu khác của Timmerman và Zhang có thể đưa ra kết luận các chế phẩm probiotics đa chủng cho thấy hiệu quả hơn các chế phẩm probiotics đơn chủng trong việc chống lại các tác nhân gây bệnh.

Một số phương pháp tiếp cận khác cũng được thực hiện trong việc loại trừ Campylobacter ở gia cầm. Năm 2001, Chen và Stern đã sử dụng các chủng C. jejuni hội sinh từ gà để loại trừ với các chủng phân lập từ người ở gà giò một ngày tuổi (broiler chick). Câu chuyện này tương tự với câu chuyện sử dụng chủng vi khuẩn E. coli Nissle, một chủng vi khuẩn không gây bệnh để thế chỗ cho các loài E. coli gây bệnh. Theo cách này, một chủng không gây bệnh của một bệnh phổ biến được sử dụng để thế chỗ các loài gây bệnh. Tuy nhiên, có rất ít dữ liệu để xác định chủng Campylobacter không gây bệnh, vì vậy, việc kiểm chứng dễ bị thiếu sót. Cũng vì thế, điều quan trọng cần phải chú ý rằng các probiotics tiềm năng này có một khả năng lớn mang các gen kháng khuẩn hoặc có các đặc tính về tính độc từ các vi khuẩn gây bệnh tương ứng hiện diện trong đường tiêu hóa và theo quan điểm của các tác giả thì nên tránh sử dụng chúng trừ khi chúng được chứng minh là an toàn bởi các nghiên cứu đánh giá được kiểm soát chặt chẽ.

Phần lớn các nghiên cứu về tính loại trừ cạnh tranh ở gia cầm tập trung vào hai bệnh chính liên quan đến Salmonella spp. và Campylobacter spp. Tuy nhiên, gần đây đã có những nghiên cứu tập trung vào các mầm bệnh mới hoặc mầm bệnh cơ hội tìm thấy ở gia cầm. Ví dụ như nghiên cứu với Clostridium perfringens, tác nhân gây bệnh viêm ruột hoại tử ở gia cầm, và E. coli O78: K80, nguyên nhân của bệnh nhiễm khuẩn E. coli (colibacillosis) gia cầm. Điều đáng quan tâm là, các bào tử của Bacillus subtilis cũng đã cho thấy tính loại trừ cạnh tranh với C. perfringens trong một mô hình thí nghiệm ở gà 1 ngày tuổi nhưng hiệu quả rất chậm dẫn (có thể do các bào tử cần nảy mầm trong ống tiêu hóa hoặc xảy ra quá trình điều hoà miễn dịch).

c) Triển vọng ứng dụng probiotics cho gia cầm

BioOne hiện có đầy đủ các sản phẩm probiotics đơn dòng và đa dòng đã được chứng minh rộng rãi có thể mang lại hiệu quả rõ rệt cho sức khỏe của gia cầm

Loại trừ cạnh tranh là một cơ chế được chấp nhận bởi việc sử dụng các chế phẩm probiotics có tác dụng bảo vệ vật chủ chống lại tác nhân gây bệnh trong thực phẩm. Cho đến nay, cơ chế đằng sau tác dụng loại trừ cạnh tranh vẫn còn nhiều điều chưa rõ. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả của các dịch nuôi cấy có tính loại trừ cạnh tranh khác nhau trên các vi khuẩn Salmonella, E. coli, Campylobacter và các mầm bệnh khác.

Các chế phẩm probiotics có tính loại trừ cạnh tranh xác định đang được phát triển. Tuy nhiên, về việc sử dụng các chế phẩm probiotics có tính loại trừ cạnh tranh không xác định còn gây khá nhiều tranh cãi và hoài nghi. Việc sử dụng chế phẩm probiotics có tính loại trừ cạnh tranh không xác định cho thấy hai mối quan tâm lớn. Thứ nhất, các tác nhân gây bệnh ở người hoặc động vật có thể hiện diện trong các hỗn hợp dịch nuôi cấy, đây là một mối nguy nghiêm trọng cho sức khỏe. Thứ hai, các cơ quan điều hòa của cơ thể có thể loại trừ tác dụng của các dịch nuôi cấy loại này.

Việc sử dụng các chế phẩm probiotics ở gia cầm cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa, đặc biệt là việc sử dụng các chế phẩm probiotics đa loài nhằm chống lại các tác nhân gây bệnh, nhất là các bệnh do SalmonellaCampylobacter gây ra.

(Nguồn: Nguyễn Văn Duy (Chủ biên), Công nghệ probiotics. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2015)

BioOne hiện có đầy đủ các sản phẩm probiotics đơn dòng và đa dòng đã được chứng minh rộng rãi có thể mang lại hiệu quả rõ rệt cho sức khỏe động vật nuôi.

– Sản phẩm BioOne StrongGut với dòng chuyên dụng cho gia cầm đã được phát triển mang lại lợi ích rõ ràng cho gà và vịt như đã được kiểm chứng tại nhiều địa phương trong toàn quốc.

– Các sản phẩm probiotics đơn dòng như: BioOne Probi (mang các chủng Bacillus sinh bào tử), BioOne Lactic (mang các chủng vi khuẩn lactic). Đây là dòng nguyên liệu vi sinh cao cấp, dùng làm nguyên liệu điều chế các chế phẩm men vi sinh, men tiêu hóa, Probiotics, chất bổ sung thức ăn chăn nuôi, chế phẩm xử lý môi trường dùng trong Thú y, Thủy sản và Môi trường.

– Các sản phẩm probiotics đa dòng cho hệ tiêu hóa động vật như: BioOne StrongGut (được phát triển chuyên biệt dùng riêng cho từng nhóm động vật: động vật thủy sản, gia súc gia cầm, gia súc ăn cỏ). Công dụng chính bao gồm: (1) Bổ sung các vi sinh vật sống và enzyme có lợi cho hệ tiêu hóa của động vật thủy sản (tôm, cá, ốc) và gia súc gia cầm (heo, bò, gà, vịt, dê,…); giúp vật nuôi tăng cường tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng; phát triển tốt và khỏe mạnh. (2) Phòng và hỗ trợ điều trị các bệnh về đường ruột như bệnh tiêu chảy, phân trắng ở vật nuôi; phòng ngừa hội chứng chết sớm.

– Các sản phẩm probiotics đa dòng cho làm sạch chuồng trại vật nuôi như: BioOne SuperClear. Công dụng chính bao gồm: (1) Làm sạch chuồng trại vật nuôi. (2) Phân hủy các chất hữu cơ từ thức ăn dư thừa, phân tôm, xác tảo, làm sạch nhầy nhớt trong tầng đáy ao. (3) Chuyên cắt tảo và làm sạch nhớt bạt trong ao nuôi, ổn định màu nước. (4) Làm sạch nước, giảm mùi hôi thối, giảm khí độc, làm đáy ao sạch, ít bùn đen. (5) Tăng lượng oxy hòa tan trong nước.

Ứng dụng probiotics trong kiểm soát bệnh đường ruột ở vật nuôi

Trước đây, các chất bổ sung trong thức ăn mang tính kháng khuẩn đã được sử dụng để kiểm soát nhiều bệnh vi khuẩn và ký sinh trùng ở các loài động vật nuôi. Tuy nhiên, như đã nói ở trên việc sử dụng các chất bổ sung có tính kháng khuẩn trong thức ăn bị cấm ở châu Âu năm 2006 đã dẫn tới sự gia tăng nguy cơ nhiễm các bệnh đường tiêu hóa. Trong số các động vật nuôi thì gia cầm (poultry) bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự gia tăng bệnh xoắn khuẩn (spirochaetosis) đường ruột, bệnh nhiễm khuẩn E. coli (colibacillosis) và bệnh viêm hoại tử ruột. Những bệnh đường ruột do E. coli (ETEC) ở lợn cũng đã gia tăng. Do đó, việc kiểm soát và thay thế các biện pháp dự phòng cần được xây dựng.

Kiểm soát Salmonella trong chăn nuôi gà thịt giống

Như đã biết, chế phẩm probiotic là một dạng thức ăn thay thế, hoặc ”thực phẩm chức năng” có thể được sử dụng cho việc dự phòng (prophylaxis) ở động vật nuôi và con người. Hiện nay, có rất nhiều sản phẩm probiotic thương mại cho gia súc. Các sản phẩm probiotic thương mại hiện nay có thể chia làm hai loại, các sản phẩm có hoạt tính loại trừ cạnh tranh đã được xác định và các sản phẩm có hoạt tính loại trừ cạnh tranh chưa được xác định. Trong các sản phẩm có tính loại trừ cạnh tranh đã được xác định, các vi sinh vật tạo nên sản phẩm đã được xác định rõ ràng và có thể có chứa một loại hoặc nhiều loại vi sinh vật probiotic. Ngược lại, các sản phẩm có tính loại trừ cạnh tranh không xác định, là những sản phẩm mà các dịch nuôi cấy vi khuẩn có một phần hoặc hoàn toàn chưa được xác định thành phần loài. Ở cả hai loại chế phẩm probiotic thương mại này thì liều lượng sử dụng là yếu tố quan trọng quyết định tới hiệu quả của chế phẩm. Liều khuyến cáo khác nhau của mỗi vi sinh vật trong các sản phẩm là do hoạt tính probioticvà những hạn chế của sản xuất công nghiệp. Liều được khuyến cáo thường nằm trong giới hạn 108 – 1010 CFU vi khuẩn/kg thức ăn.

Các sản phẩm có tính loại trừ cạnh tranh đầu tiên được phát triển bởi Nurmi và Rantala (1973) được chỉ định sử dụng cho gà. Sản phẩm này được sử dụng bằng cách dùng ống dẫn trực tiếp vào diều của gà con. Tuy nhiên, phương pháp này khá thủ công, khó áp dụng cho những người chăn nuôi hàng nghìn gia cầm. Vì thế, trong những năm qua các phương pháp tạo dạng viên, viên nang, bột nhão, bột và dạng hạt đã được phát triển để đưa các chế phẩm probiotic vào thức ăn gia súc. Đối với gia cầm, phương pháp được ưa thích khi sử dụng các sản phẩm probiotic là qua nước uống, mặc dù qua đường này có thể gặp phải vấn đề nảy sinh khi gà không chịu uống nước có chứa sản phẩm probiotic. Các hệ thống nhỏ giọt đã được phát triển để cải tiến phương pháp sử dụng probiotic ở gà con.

Kiểm soát hiệu quả bệnh đường ruột ở vật nuôi bằng chế phẩm BioOne StrongGut

Những hiểu biết về cơ chế hoạt động như nhân tố dự phòng của các chế phẩm probiotic trong đường ruột của vật chủ còn nhiều hạn chế, hiện tại vẫn chỉ là những phỏng đoán. Các cơ chế được nhiều nhà khoa học chấp nhận bao gồm: sự tiết các hợp chất kháng vi sinh vật (antimicrobial compound), tính cạnh tranh trong việc gắn vào các thụ thể của tế bào vật chủ, tính cạnh tranh các chất dinh dưỡng cần thiết và sự kích thích hệ thống miễn dịch của vật chủ. Bên cạnh đó, các bào tử sử dụng qua đường miệng, nảy mầm trong đường ruột của gà và có khả năng tạo ra các hợp chất kháng khuẩn sau khi bào tử nảy mầm trong đường ruột của vật chủ cũng đã được chứng minh bởi Cartman và cs năm 2008. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu chỉ ra được rõ ràng các hợp chất kháng khuẩn bởi những thí nghiệm in vitro đến in vivo.

Thực tế, probiotic hiện đã được sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản, vì chúng giúp giảm dịch bệnh và tăng năng suất vật nuôi. Rất nhiều công thức probiotic được sử dụng cho vật nuôi, tuy nhiên chủ yếu vẫn là các vi khuẩn lactic, như EnterococcusLactobacillus, mặc dù BacillusStreptococcus cũng là thành phần của một số sản phẩm.

Một số nghiên cứu gần đây cho thấy rằng ngoài các vi sinh vật gây bệnh bám dính vào các tế bào biểu mô và kiểm soát hoạt động của tế bào này, một số loài vi sinh vật cộng sinh cũng ảnh hưởng tới hoạt động của các tế bào biểu mô. Bên cạnh đó, các nhân tố gây stress ở động vật bao gồm môi trường sống, dinh dưỡng, việc cai sữa, sự vận chuyển…cũng gây ức chế khả năng kháng bệnh và tăng nguy cơ nhiễm trùng ở vật nuôi. Hơn nữa, sự sinh trưởng của một số vi khuẩn gây bệnh lại được kích thích bởi sự gia tăng của các hormone stress như norepinephrine và epinephrine. Vì vậy, cần có nhiều thông tin và những nghiên cứu thực nghiệm hơn nữa để xác định probiotic là nhân tố dự phòng hiệu quả ở vật nuôi.

(Nguồn: Nguyễn Văn Duy (Chủ biên), Công nghệ probiotic. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2015)

BioOne hiện có đầy đủ các sản phẩm probiotics đơn dòng và đa dòng đã được chứng minh rộng rãi có thể mang lại hiệu quả rõ rệt cho sức khỏe động vật nuôi.

– Các sản phẩm probiotics đơn dòng như: BioOne Probi (mang các chủng Bacillus sinh bào tử), BioOne Lactic (mang các chủng vi khuẩn lactic). Đây là dòng nguyên liệu vi sinh cao cấp, dùng làm nguyên liệu điều chế các chế phẩm men vi sinh, men tiêu hóa, Probiotic, chất bổ sung thức ăn chăn nuôi, chế phẩm xử lý môi trường dùng trong Thú y, Thủy sản và Môi trường.

– Các sản phẩm probiotics đa dòng cho hệ tiêu hóa động vật như: BioOne StrongGut (được phát triển chuyên biệt dùng riêng cho từng nhóm động vật: động vật thủy sản, gia súc gia cầm, gia súc ăn cỏ). Công dụng chính bao gồm: (1) Bổ sung các vi sinh vật sống và enzyme có lợi cho hệ tiêu hóa của động vật thủy sản (tôm, cá, ốc) và gia súc gia cầm (heo, bò, gà, vịt, dê,…); giúp vật nuôi tăng cường tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng; phát triển tốt và khỏe mạnh. (2) Phòng và hỗ trợ điều trị các bệnh về đường ruột như bệnh tiêu chảy, phân trắng ở vật nuôi; phòng ngừa hội chứng chết sớm

– Các sản phẩm probiotics đa dòng cho làm sạch chuồng trại vật nuôi như: BioOne SuperClear. Công dụng chính bao gồm: (1) Làm sạch chuồng trại vật nuôi. (2) Phân hủy các chất hữu cơ từ thức ăn dư thừa, phân tôm, xác tảo, làm sạch nhầy nhớt trong tầng đáy ao. (3) Chuyên cắt tảo và làm sạch nhớt bạt trong ao nuôi, ổn định màu nước. (4) Làm sạch nước, giảm mùi hôi thối, giảm khí độc, làm đáy ao sạch, ít bùn đen. (5) Tăng lượng oxy hòa tan trong nước.

Ứng dụng probiotics nhằm thay thế kháng sinh trong chăn nuôi

Sự ra đời của thuốc kháng sinh và việc sử dụng chúng trong điều trị các biểu hiện lâm sàng của bệnh nhiễm trùng đã có những tác động lớn đến sức khỏe động vật và an sinh. Các chất kháng khuẩn mặc dù hiệu quả trong việc tiêu diệt các vi sinh vật mục tiêu gây nhiễm trùng nhưng cũng có những tác dụng phụ do làm thay đổi hệ vi sinh vật bản địa. Cụ thể, kháng sinh gây ra tiêu chảy là kết quả của sự mất cân bằng hệ vi sinh vật và thường là sự phát triển quá mức của các loài vi khuẩn đã hiện diện ở đường ruột.

Ngoài việc áp dụng trực tiếp trong kiểm soát nhiễm trùng, việc sử dụng thuốc kháng sinh nồng độ thấp trong thức ăn chăn nuôi đã cho thấy mối tương quan với tình trạng sức khỏe tốt hơn và cải thiện về hiệu suất chuyển đổi thức ăn (tăng cân hiệu quả) của vật nuôi. Vì thế, thuốc kháng sinh đã được sử dụng như “chất kích thích tăng trưởng” trong thức ăn chăn nuôi từ những năm 1940. Ngay từ khi bắt đầu có khái niệm về chất kích thích tăng trưởng, đã có một cuộc tranh luận của các nhà khoa học về việc sử dụng các chất kháng sinh ở nồng độ thấp như thế nào cho hợp lý và có hay không có sự gia tăng tính kháng kháng sinh của hệ vi khuẩn trong vật nuôi.

WHO cảnh báo tình trạng sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi đang ở mức báo động

Những bằng chứng từ các kết quả nghiên cứu được thống kê trong năm thập kỷ qua cho thấy tính kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn ở động vật nuôi đã được công nhận là một vấn đề y tế cần được quan tâm trong ngành thú y. Việc sử dụng các chất kháng sinh ở động vật được coi là một yếu tố chính làm xuất hiện tính kháng kháng sinh của vi khuẩn. Tuy nhiên, vấn đề này nên được đặt trong bối cảnh việc sử dụng tự do không kiểm soát thuốc kháng sinh ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển nơi mà đang xuất hiện các tính kháng với các kháng sinh beta-lactam phổ rộng.

Trong những năm gần đây, mối quan tâm đến việc kích thích sinh trưởng nhờ các chất kháng sinh trong chăn nuôi đã dẫn đến sự hủy bỏ của nhiều hợp chất dự phòng và điều trị. Năm 2006, các chất kích thích sinh trưởng kháng khuẩn đã bị cấm trong thức ăn gia súc ở các quốc gia châu Âu (EU). Các phương pháp thay thế kháng sinh để điều trị các bệnh phổ biến ở vật nuôi cũng bắt đầu được quan tâm nhiều trong thời gian này do dịch bệnh gia tăng từ khi lệnh cấm ban hành. Một số phương pháp thay thế đã được sử dụng như phương pháp sử dụng vắc xin toàn phần (whole cell) hay vắc xin từng phần (sub-unit) trong điều trị bệnh tiêu chảy ở các động vật non hoặc động vật mới sinh do vi khuẩn E. coli. Các biện pháp an toàn sinh học đã được triển khai áp dụng trong đó bao gồm phương pháp hàng rào chăn nuôi, hạn chế tiếp cận với vật nuôi, kiểm soát sâu bọ, thay đổi luồng không khí và chế độ khử trùng tốt… Quá trình acid hóa của thức ăn cũng đã được chứng minh là làm giảm mầm bệnh. Ngoài ra, sự ức chế tác nhân gây bệnh thông qua các hoạt động của bản thân hệ vi sinh vật đường ruột của vật nuôi, thường được tăng cường bởi các prebiotic hoặc probiotic, là một lĩnh vực được các nhà khoa học rất quan tâm.

Kháng sinh được đánh giá là hiểm họa và trở ngại lớn của nông nghiệp Việt Nam

Các chất phụ gia trong thức ăn động vật (bao gồm cả nấm men và vi khuẩn) được kiểm soát nghiêm ngặt trong mạng lưới pháp luật của khối EU. Để một sản phẩm probiotic mới đạt đủ điều kiện với các quy định của EU hiện nay về các phụ gia trong thức ăn động vật thì thành phần của sản phẩm cần phải được xác định rõ ràng đến mức độ loài, dữ liệu về tính hiệu quả của sản phẩm cần phải được cung cấp, yêu cầu sản phẩm không ảnh hưởng tới các loài động vật đích (như: không có tác dụng bất lợi cho sức khỏe hoặc hoạt động của động vật…) và an toàn với người tiêu thụ cuối cùng. Ngoài ra, một sản phẩm probiotic mới cần đáp ứng yêu cầu không có bất cứ yếu tố nào quyết định tính đề kháng với các chất kháng khuẩn.

(Nguồn: Nguyễn Văn Duy (Chủ biên), Công nghệ probiotic. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2015)

BioOne hiện có đầy đủ các sản phẩm probiotics đơn dòng và đa dòng đã được chứng minh rộng rãi có thể mang lại hiệu quả rõ rệt cho sức khỏe động vật nuôi.

– Các sản phẩm probiotics đơn dòng như: BioOne Probi (mang các chủng Bacillus sinh bào tử), BioOne Lactic (mang các chủng vi khuẩn lactic). Đây là dòng nguyên liệu vi sinh cao cấp, dùng làm nguyên liệu điều chế các chế phẩm men vi sinh, men tiêu hóa, Probiotic, chất bổ sung thức ăn chăn nuôi, chế phẩm xử lý môi trường dùng trong Thú y, Thủy sản và Môi trường.

– Các sản phẩm probiotics đa dòng cho hệ tiêu hóa động vật như: BioOne StrongGut (được phát triển chuyên biệt dùng riêng cho từng nhóm động vật: động vật thủy sản, gia súc gia cầm, gia súc ăn cỏ). Công dụng chính bao gồm: (1) Bổ sung các vi sinh vật sống và enzyme có lợi cho hệ tiêu hóa của động vật thủy sản (tôm, cá, ốc) và gia súc gia cầm (heo, bò, gà, vịt, dê,…); giúp vật nuôi tăng cường tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng; phát triển tốt và khỏe mạnh. (2) Phòng và hỗ trợ điều trị các bệnh về đường ruột như bệnh tiêu chảy, phân trắng ở vật nuôi; phòng ngừa hội chứng chết sớm

– Các sản phẩm probiotics đa dòng cho làm sạch chuồng trại vật nuôi như: BioOne SuperClear. Công dụng chính bao gồm: (1) Làm sạch chuồng trại vật nuôi. (2) Phân hủy các chất hữu cơ từ thức ăn dư thừa, phân tôm, xác tảo, làm sạch nhầy nhớt trong tầng đáy ao. (3) Chuyên cắt tảo và làm sạch nhớt bạt trong ao nuôi, ổn định màu nước. (4) Làm sạch nước, giảm mùi hôi thối, giảm khí độc, làm đáy ao sạch, ít bùn đen. (5) Tăng lượng oxy hòa tan trong nước.